Trân trọng giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Thị Tú Trinh, công bố trên Tạp chí Khoa học Đại học Văn Lang số 9 tháng 5/2018.

 

TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI THAM GIA HỢP TÁC TRONG TIỂU VÙNG SÔNG MÊ CÔNG MỞ RỘNG

(Impact on Vietnam when participating in cooperation in the Greater Mekong Subregion)

 Ths. Nguyễn Thị Tú Trinh[1]

TÓM TẮT

Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (Greater Mekong Subregion - GMS) bao gồm lãnh thổ các nước: Trung Quốc, Lào, Mianmar, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Đây là một tổ chức hợp tác của các nước có chung dòng sông Mê Công, được thành lập vào năm 1992 theo đề xuất sáng kiến từ Ngân hàng phát triển Châu Á. Việt Nam tham gia hợp tác trong GMS từ năm 1992 và là thành viên sáng lập nên tổ chức này. Quá trình tham gia hợp tác đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực và lâu dài cho Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong công tác bảo vệ môi trường, nhưng mặt khác nó cũng gây ra những hạn chế, yếu kém. Vì vậy, Việt Nam cần tranh thủ tối đa những điều kiện thuận lợi theo tinh thần tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời cố gắng khắc phục những khó khăn, thách thức nhằm góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và thế giới.

Từ khóa: Tiểu vùng Mê Công mở rộng, hợp tác quốc tế, tác động đối với Việt Nam.

Abstract

The Greater Mekong Subregion (GMS) covers the territories of China, Laos, Myanmar, Thailand, Cambodia and Vietnam. This is a cooperative organization of countries sharing the Mekong River, established in 1992 under the initiative of the Asian Development Bank.

Vietnam has joined the GMS since 1992 and is a founding member of this organization. The process of cooperation has brought many practical and long-term benefits for Vietnam in socio-economic development as well as in environmental protection, but on the other hand it also has limited weak. Therefore, Vietnam should take advantage of favorable conditions in the spirit of positive, active integration into the international economy. At the same time try to overcome the difficulties and challenges to contribute to raising the position of Vietnam in the region and the world.

Keywords: The Greater Mekong Subregion, international cooperation, impact on Vietnam.

1. GIỚI THIỆU

Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (Greater Mekong Subregion – GMS) là một khu vực địa lý bao gồm diện tích lãnh thổ các nước Trung Quốc[2], Lào, Mianmar, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Trong đó yếu tố gắn kết các quốc gia lại với nhau là dòng sông Mê Công. Khái niệm này do Ngân hàng phát triển châu Á (The Asian Development Bank – ADB) đưa ra lần đầu tiên vào năm 1992. Sở dĩ GMS được thành lập là do nhiều yếu tố, ngoài yếu tố nổi bậc là có chung dòng sông Mê Công chảy qua, khu vực này còn có nhiều điểm tương đồng về vị trí địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội.

Xét về vị trí địa lý, nơi đây có hai đại dương lớn bao bọc là Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, với địa thế thuận lợi, khu vực GMS trở thành điểm kết nối nhiều thị trường lớn và các nền kinh tế năng động của châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước ASEAN, tạo thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu, đóng vai trò cầu nối giao thông, thương mại, đầu tư giữa các nước châu Á. 

Xét về điều kiện kinh tế, vào những năm cuối của thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, các quốc gia trong GMS nhìn chung kinh tế còn nghèo, lạc hậu. Trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội, nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ khá cao. Nguyên nhân là do các nước trong GMS một thời gian dài bị chiến tranh tàn phá nặng nề kéo theo cơ sở hạ tầng yếu kém, thêm vào đó là việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp đã làm cho nền kinh tế các nước, đặc biệt là kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng, các nước chỉ mới bắt đầu chuyển đổi sang kinh tế thị trường trong những năm gần đây và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới với nhiều mức độ khác nhau.

Xét về yếu tố chính trị, GMS là một khu vực đa dạng về thể chế chính trị. Có những nước xây dựng thể chế chính trị cộng hòa và dân chủ nhân dân như: Trung Quốc, Việt Nam, Lào… định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội; Có những nước theo thể chế Liên bang như Mianmar…Chính sự đa dạng về thể chế chính trị buộc các nước phải tăng cường hợp tác nhằm đảm bảo một khu vực hòa bình, ổn định lâu dài để có thể kêu gọi, thu hút nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển chung của khu vực.

Về mặt xã hội, khu vực GMS có dân số khoảng 326 triệu người (2011) (Lê Thị Diệp, 2013) với nhiều quốc tịch và dân tộc khác nhau. Đặc điểm chung của những cư dân thuộc khu vực này là những nước thuộc diện kém phát triển của châu Á và thế giới. Nơi đây có tỷ lệ hộ nghèo đói khá cao. Vào năm 1989, “ước tính trên thế giới có 1,131 triệu người sống trong tình trạng đói nghèo thì 723 triệu người tức khoảng 60.6% thuộc về khu vực châu Á mà trong đó các cư dân vùng sinh thủy (Wateshed) thuộc tiểu vùng Mê Công là những người đói nghèo nhất.” (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2013).

Tóm lại, qua phân tích về những yếu tố nêu trên, có thể thấy rằng GMS được hình thành xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của mỗi nước trong hoàn cảnh kinh tế đang trong giai đoạn nghèo nàn, lạc hậu, và nó cũng phù hợp với tiến trình hội nhập toàn cầu và khu vực trên thế giới. Mục tiêu hợp tác của GMS là nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác phát triển giữa các nước trong GMS, đưa tiểu vùng nhanh chóng trở thành vùng phát triển nhanh và thịnh vượng ở châu Á. Cơ chế hoạt động theo 5 hình thức tổ chức là Hội nghị cấp cao GMS, Hội nghị cấp Bộ trưởng, Diễn đàn ngành và nhóm công tác, Ủy ban điều phối quốc gia GMS và Ban Thư ký. Ban Thư ký hiện tại do ADB phụ trách, có chức năng điều phối các hoạt động của GMS, có trụ sở đặt tại Manila (Philippin). Hoạt động hợp tác của GMS chủ yếu diễn ra trên các lĩnh vực: Giao thông tận tải; Năng lượng và Bưu chính viễn thông;  Du lịch; Thương mại; Đầu tư; Phát triển Nguồn nhân lực; Nông nghiệp; Môi trường và Quản lý nguồn nước sông Mê Công.

Có thể nói, sự ra đời và phát triển của GMS gắn liền với sự đóng góp to lớn của ADB. Tổ chức này đã tài trợ nhiều chương trình, dự án hợp tác kinh tế, đồng thời xây dựng nhiều kế hoạch để GMS hoạt động. Ngoài ra, Nhật Bản cũng có vai trò to lớn đối với sự lớn mạnh và phát triển của GMS thông qua hình thức đầu tư trực tiếp và viện trợ chính thức cho các nước thành viên trong GMS, trong đó Việt Nam, Lào, Campuchia là những nước đón nhận nhiều nguồn vốn đầu tư từ Nhật Bản.

2. NỘI DUNG

2.1 Quá trình tham gia hợp tác của Việt Nam trong GMS (1992 – 2016)

2.1.1 Giao thông vận tải

Trong giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2016, hợp tác về giao thông vận tải giữa Việt Nam với các nước GMS được đẩy mạnh với nhiều tuyến hành lang kinh tế mới đã hoàn thành và đi vào sử dụng. Hành lang kinh tế được hiểu “là những không gian địa lý xuyên qua ranh giới quốc gia và là nơi mà sản xuất và các hoạt động buôn bán cùng đổ về dọc theo những tuyến đường giao thông được xác định rõ” (Nguyễn Hoàng Huế, 2014). Như vậy, trong hợp tác về giao thông vận tải giữa Việt Nam với các nước GMS chủ yếu diễn ra trên hợp tác giao thông đường bộ. Tính đến năm 2010, có ba tuyến hành lang kinh tế đã đi vào hoạt động, bao gồm: Hành lang kinh tế Đông – Tây hoàn thành vào năm 2006; Hành lang kinh tế Bắc – Nam và Hành lang kinh tế phía Nam hoàn thành năm 2010. Trong ba tuyến hành lang kinh tế nêu trên, tuyến hành lang kinh tế Đông – Tây được xác định là quan trọng nhất với chiều dài 1450 km  đi qua 4 nước, bắt đầu từ thành phố cảng Mawlamyine (Mianmar) đi qua 7 tỉnh của Thái Lan, qua địa phận tỉnh Savannakhet (Lào) và cuối cùng là qua các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng (Việt Nam).

Điểm đáng lưu ý trong hợp tác giao thông giữa Việt Nam với các nước GMS là sự kiện năm 2007, các nước thành viên đã nhất trí thông qua Chiến lược giao thông tiểu vùng Mê Công giai đoạn 2006-2015. Theo đó sẽ điều chỉnh lại quy hoạch các hành lang kinh tế tiểu vùng bằng cách mở rộng thêm 9 hành lang giao thông mới thay vì 7 hành lang giao thông như trước đây. Riêng tại Việt Nam đã mở rộng thêm một số tuyến hành lang giao thông mới đi qua các tỉnh thành như: Thành phố Hồ Chí Minh, Pleiku, Quy Nhơn, Hà Tiên, Cà Mau. Ngoài 3 cửa ngõ ra biển phía Đông hiện có là Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hải Phòng, quy hoạch mở thêm 2 cửa ngõ mới ở Việt Nam là Thanh Hoá và Qui Nhơn. Sự mở rộng các tuyến hành lang giao thông mới là phù hợp với chương trình và mục tiêu hợp tác của GMS. Đó là muốn mở rộng về quy mô và chất lượng các chương trình, dự án trong hợp tác kinh tế GMS.

2.1.2 Thương mại và đầu tư

Trong lĩnh vực thương mại: Việt Nam đã tham gia ký kết Khung chiến lược hành động và xúc tiến thương mại và đầu tư được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh GMS 2 (2005) tại Côn Minh (Trung Quốc). Hiệp định tập trung giải quyết những vấn đề về thủ tục hải quan; Các biện pháp thanh tra và kiểm dịch; Dịch vụ thương mại và việc đi lại của doanh nhân. Ngoài ra, hàng năm Việt Nam còn phối hợp với các nước GMS tổ chức “Diễn đàn kinh doanh”, thành lập nhóm về hải quan và phát triển hệ thống dịch vụ “một cửa” để tạo điều kiện thu hút các nhà đầu tư đến khu vực GMS.

Về hợp tác đầu tư: Hoạt động hợp tác đầu tư giữa Việt Nam với các nước GMS diễn ra mạnh mẽ thông qua việc tổ chức các buổi diễn đàn hợp tác đầu tư. Việt Nam xác định đây là kênh rất quan trọng để thu hút nguồn vốn đầu tư từ các nước GMS và các đối tác bên ngoài. Để nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư, Việt Nam đề xuất thành lập Nhóm công tác đầu tư tiểu vùng, đồng thời tích cực tham gia hoạt động của Nhóm để huy động nguồn vốn nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng và tăng cường năng lực xúc tiến đầu tư. Đầu mối của Việt Nam tham gia diễn đàn đầu tư tiểu vùng GMS là Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

2.1.3 Hợp tác phát triển du lịch

Du lịch được xem là một ngành kinh tế tổng hợp, là ngành kinh tế mũi nhọn và là công cụ cứu cánh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kích thích các ngành kinh tế khác phát triển. Từ những đóng góp to lớn của ngành du lịch, Việt Nam và các nước GMS đặt ra mục tiêu là xây dựng và khuyếch trương GMS thành điểm đến duy nhất, hướng đến phát triển du lịch bền vững. Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam đã phối hợp với các nước GMS triển khai dự án Phát triển bền vững du lịch tiểu vùng sông Mê Công” do ADB tài trợ, với mong muốn thúc đẩy phát triển bền vững du lịch các nước Việt Nam, Lào, Campuchia thông qua việc nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch, phát triển du lịch dựa vào cộng đồng, hỗ trợ người nghèo và hợp tác tiểu vùng về du lịch. Dự án được chia ra làm hai giai đoạn:

Giai đoạn I: Thời gian thực hiện từ năm 2003 đến năm 2009, tổng vốn đầu tư là 12,2 triệu USD (http://vietnamtourism.gov.vn). Thực hiện ở các địa điểm: An Giang, Tiền Giang, Hà Nội, Lào, Campuchia. Kết thúc giai đoạn I,  dự án đã hoàn thành tốt các mục tiêu về xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp cơ sở vật chất cho các địa phương, tiêu biểu là: Xây dựng cầu tàu Du lịch Mỹ Tho, Cầu tàu du lịch Châu Đốc, trạm kiểm soát liên hiệp Vĩnh Xương,…

Giai đoạn II của dự án được triển khai trong thời gian từ năm 2009 đến năm 2013,  thực hiện ở các địa điểm tại Việt Nam: Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Hà Nội và một số địa phương của Lào. Nội dung hoạt động của dự án giai đoạn II về cơ bản giống giai đoạn I, nhưng được bổ sung về chương trình phát triển du lịch dọc hành lang kinh tế Đông-Tây. Dự án đã và đang hoàn thành một số chỉ tiêu như: Thực hiện nhiều hoạt động về du lịch cộng đồng gắn xóa đói giảm nghèo; Hợp tác tiểu vùng Việt Nam-Lào; Quảng cáo các sản phẩm du lịch trên các tạp chí quốc tế; Phát triển đào tạo nguồn nhân lực trong nước và nước ngoài cho các cán bộ quản lý…

Bên cạnh đó, giữa các nước GMS còn phối hợp tổ chức nhiều hội thảo khoa học liên quan đến lĩnh vực du lịch cũng như tổ chức các diễn đàn hợp tác du lịch Mê Công. Năm 2013, Diễn đàn Du lịch Mê Công được tổ chức tại Hà Nội nhằm mục đích trao đổi thông tin, tìm kiếm giải pháp liên kết, hợp tác thúc đẩy đầu tư và hoạt động kinh doanh giữa các công ty, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực du lịch của các nước thuộc GMS, đồng thời giới thiệu, quảng bá tiềm năng và sản phẩm du lịch của các nước trong Tiểu vùng. Đặc biệt, nhằm thu hút khách du lịch quốc tế đến tham quan tại khu vực, Việt Nam và các nước GMS đã thực hiện chính sách đơn giản hoá thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh, nâng cấp các cửa khẩu quốc gia và quốc tế, đồng thời miễn visa cho khách du lịch. Các nước mong muốn xây dựng và đưa vào áp dụng visa chung cho các nước GMS vào năm 2015.

2.1.4 Hợp tác phát triển nguồn nhân lực

Hợp tác phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung được các nước GMS xác định mang tính chiến lược và lâu dài trong chương trình hợp tác kinh tế GMS. Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một nguồn lực của sự phát triển  kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn nhân lực, tại Hội nghị Bộ trưởng GMS 15 (2009) tổ chức tại Thái Lan, Việt Nam và các nước GMS đã nhất trí thông qua Khung chiến lược Phát triển nguồn nhân lực GMS và Kế hoạch hành động giai đoạn II (2009 – 2012) với sự hỗ trợ vốn, kỹ thuật từ ADB và các đối tác phát triển. Kế hoạch hành động này tập trung giải quyết nhiều vấn đề đáng quan tâm trong lĩnh vực đào tạo - phát triển kỹ năng, lao động - nhập cư, và phát triển xã hội,… Đối với lĩnh vực y tế, để góp phần giải quyết các vấn đề liên quan đến các dịch bệnh phát sinh như SARS, cúm gia cầm, HIV/AIDS và các bệnh dịch khác như bại liệt, sốt rét, lao, ADB đã tài trợ dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các nước Việt Nam, Lào và Campuchia trong công tác phòng chống dịch bệnh với sự tham gia tích cực của các địa phương, các bộ, cơ quan y tế của các nước này. Dự án này đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực.

2.1.5 Hợp tác bảo vệ môi trường

Trong nhiều năm trở lại đây, do chứng kiến những thay đổi bất thường về biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng tại khu vực GMS, nên công tác bảo vệ môi trường đã nhận được sự quan tâm rất lớn từ các nước trong tổ chức này. Về phía Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước GMS xây dựng nhiều chương trình, dự án nhằm bảo vệ và sử dụng hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên. Trong đó đặc biệt là Chương trình Môi trường trọng điểm do ADB đề xuất xây dựng từ tháng 9/2004. Mục đích của chương trình nhằm bảo vệ môi trường và hệ sinh thái các tuyến hành lang kinh tế; đảm bảo đầu tư phát triển bền vững các lĩnh vực giao thông, thủy điện và du lịch; thực hiện các chiến lược nhằm bảo tồn thiên nhiên các nước GMS; phát triển và ứng dụng các chỉ số môi trường để đánh giá mức độ tiến triển của việc phát triển bền vững môi trường. Kế hoạch cụ thể của chương trình là duy trì và củng cố sự kết nối hệ sinh thái rừng giữa Quảng Nam, Thừa Thiên Huế và Quảng Trị ở miền Trung Việt Nam, hình thành một hệ thống hành lang đa dạng sinh học tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế nhằm phục hồi và duy trì tính liên kết của hệ sinh thái trong khu vực (liên kết khu vực 3 nước Việt Nam, Lào và Campuchia) bảo đảm dịch vụ hệ sinh thái rừng bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu tại vùng Trung Trường Sơn, đem lại lợi ích sinh kế cho cộng đồng địa phương nhằm phát triển kinh tế khu vực.

2.1.6 Hợp tác quản lý nguồn nước sông Mê Công

Để góp phần sử dụng có hiệu quả nguồn nước sông Mê Công, bốn nước thành viên trong Ủy hội sông Mê Công (Mekong River Commission - MRC) bao gồm: Việt Nam, Thái Lan, Lào và Campuchia đã tham gia ký kết bản Tuyên bố Hua Hin (2010), được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên của MRC tổ chức tại Thái Lan với mục tiêu thúc đẩy và điều phối nguồn tài nguyên nước, khai thác và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên liên quan, tìm kiếm lợi ích chung của quốc gia và phúc lợi của người dân. Trong bản Tuyên bố, các nước cam kết xây dựng “Lưu vực sông Mê Công có nền kinh tế thịnh vượng, xã hội công bằng và môi trường tốt”. Trên cơ sở Tuyên bố Hua Hin, MRC đã thông qua Chiến lược phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước cho hạ lưu vực sông Mê Công vào tháng 1/2011. Chiến lược này là một tuyên bố của các quốc gia hạ lưu vực sông Mê Công (Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam) về cách thức các quốc gia này sẽ chia sẻ, sử dụng, quản lý và bảo tồn tài nguyên nước và tài nguyên liên quan của lưu vực sông Mê Công để đạt được các mục tiêu của Hiệp định Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công được ký kết năm 1995. Thời gian thực hiện chiến lược từ năm 2011 đến 2015, với sự hỗ trợ và giám sát của Ban Thư ký MRC. Trong đó, các thành viên trong Ủy hội sẽ tập trung quản lý tổng hợp cho các ngành thủy sản, giao thông thuỷ, quản lý rủi ro lũ và hạn, du lịch, hệ sinh thái, đất ngập nước và quản lý vùng đầu nguồn.

2.2 Đánh giá tác động từ quá trình tham gia hợp tác của Việt Nam trong GMS (1992 – 2016)

2.2.1 Tác động tích cực

Thông qua quá trình tham gia hợp tác trong GMS đã mang lại những tác động tích cực, góp phần làm thay đổi diện mạo của Việt Nam. Cụ thể:

Đối với lĩnh vực giao thông vận tải: Việc hoàn thành các tuyến hành lang kinh tế sẽ mang lại nhiều lợi ích thiết thực và lâu dài cho Việt Nam. Một khi các tuyến hành lang kinh tế này đi vào vận hành sẽ “đánh thức” những tiềm năng còn đang ngủ quên, các tuyến hành lang kinh tế khi đi qua các địa phương của Việt Nam sẽ tạo điều kiện cải thiện cơ sở hạ tầng giao thông cũng như đẩy mạnh thu hút đầu tư từ các nước trong khu vực và các nước khác trên thế giới. Nhiều dự án giao thông mới tại Việt Nam được nâng cấp và đi vào hoạt động, bao gồm: “Dự án nâng cấp tuyến đường 9 ở Việt Nam hoàn thành năm 2006. Dự án này, sau khi nâng cấp, đã kết nối cảng Tiên Sa (Đà Nẵng), Quốc lộ 1 của Việt Nam từ Đà Nẵng qua Huế, Đông Hà, Lao Bảo, đường 9 ở Lào, tuyến đường qua Đông Bắc Thái Lan và nối với cảng Mawlamyine của Mianma (Nguyễn Hoàng Huế, 2014). Đến năm 2015, Việt Nam đã xây dựng xong cao tốc Hà Nội​-Lào Cai, kết nối với đường cao tốc Côn Minh-Hà Khẩu, tạo đà cho các địa phương có tuyến hành lang đi qua phát triển kinh tế xã hội. Ngoài ra, “năm 2016, Việt Nam đã nhận được các khoản vay đồng tài trợ trị giá 305,5 triệu USD từ Chính phủ Nhật Bản cho Dự án Đường cao tốc Bến Lức – Long Thành thuộc tiểu vùng Mê Công mở rộng – Giai đoạn 2; và một khoản viện trợ đồng tài trợ trị giá 1,8 triệu USD từ Chính phủ Cannada cho Dự án Giảm thiểu và Quản lý Rủi ro Lũ lụt và Hạn hán trong Tiểu vùng Mê Công mở rộng.” (www.adb.org). Mặt khác, giao thông thuận lợi sẽ tạo động lực thúc đẩy phát triển ngành du lịch giữa Việt Nam với các nước GMS được dễ dàng hơn.

Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, các tuyến hành lang kinh tế khi hoạt động còn có tác dụng rút ngắn thời gian di chuyển giữa Việt Nam với các nước GMS. Sau khi hành lang kinh tế Đông Tây đi vào vận hành đã rút ngắn được 319 km khoảng cách từ Savannakhet đến Lao Bảo, với thời gian khoảng 6 giờ thay vì 14 – 16 giờ như trước đây (Tư vấn của ADB phỏng vấn người sử dụng, năm 2008).

Về thương mại: Sau khi tham gia ký kết Khung chiến lược hành động và xúc tiến thương mại và đầu tư, cùng với Hiệp định vận tải xuyên biên giới đã tạo thuận lợi cho công tác vận tải hành khách và hàng hoá qua biên giới giữa Việt Nam với các nước GMS được dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, việc tăng cường hợp tác thương mại với các nước GMS còn tạo điều kiện cho sản phẩm hàng hóa của Việt Nam có thể nâng cao tính cạnh tranh với hàng hóa các nước trong khu vực, thị trường hàng hóa được mở rộng, nhiều hoạt động trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước GMS diễn ra mạnh mẽ và thu về những giá trị kinh tế rất lớn tại các cửa khẩu biên giới giáp với Việt Nam. Theo khảo sát của các cơ quan chức năng, “tính đến tháng 9.2008, hàng hoá, khách du lịch thông qua hai cặp cửa khẩu Hữu Nghị II - Mukdahan và Lao Bảo – Dansavanh đạt khoảng gần 500 triệu USD/năm và gần 3.000 lượt khách/ngày. Tổng giá trị hàng hoá qua cửa khẩu Thái /Lào đạt 1 tỉ USD năm 2006 và 1,3 tỉ USD năm 2007; lượng hàng qua Việt Nam đạt khoảng 30-40%” (Nguyễn Hoàng Huế, 2014).  Có thể nói, hợp tác thương mại giữa Việt Nam với các nước GMS đã thu về những kết quả tốt đẹp, góp phần làm gia tăng giá trị kinh tế cho Việt Nam cũng như các nước khác trong GMS.

 Đối với hợp tác đầu tư: Bên cạnh những thành công trong hợp tác thương mại, hợp tác đầu tư với các nước GMS cũng mang lại nhiều hiệu quả tích cực cho Việt Nam trên cả hai phương diện: thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài và đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào các nước GMS.

Về thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài: các nước GMS trong đó có Việt Nam được đánh giá là điểm đến hấp dẫn trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư quốc tế, trong đó ADB là tổ chức đầu tư lớn nhất cho GMS. Theo các số liệu thống kê đến cuối năm 2012, “ADB đã cung cấp 5,5 tỷ USD vốn vay và viện trợ không hoàn lại để hỗ trợ cho các dự án trong Chương trình GMS. Trong đó, Việt Nam tiếp nhận 2,3 tỷ USD và hưởng 136 dự án hỗ trợ kỹ thuật khu vực với trị giá 275 triệu USD. Những hỗ trợ từ ADB tập trung vào mạng lưới giao thông, hành lang kinh tế, kết nối điện, phát triển du lịch, kiểm soát bệnh truyền nhiễm và phòng chống HIV/AIDS, an ninh lương thực” (http://baodientu.chinhphu.vn ). Ngoài ra, các nước lớn cũng tăng cường đầu tư vào GMS, trong đó Nhật Bản là một trong những quốc gia đầu tiên có mặt tại khu vực này, và cũng là nước có xu hướng tăng mạnh về nguồn vốn đầu tư. “Trong giai đoạn 2000 – 2012, đầu tư của Nhật Bản vào tiểu vùng sông Mê Công (trừ Trung Quốc) đạt khoảng 32,7 tỷ USD, chiếm hơn 45% tổng số đầu tư của nước này vào các nước Đông Nam Á (ASEAN)” (Nguyễn Thị Thắm, 2015), riêng Việt Nam là nước tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nhiều nhất từ Nhật Bản, “năm 2012, Việt Nam lần đầu tiên vượt qua Thái Lan trở thành nước có số đầu tư của Nhật Bản lớn nhất trong tiểu vùng với 2,6 tỷ USD, tăng 352% so với năm 2009” (Nguyễn Thị Thắm, 2015). Hàn Quốc bắt đầu mở rộng quy mô và tăng số lượng các dự án đầu tư vào GMS từ năm 2006 và bắt đầu phát triển mạnh vào năm 2011. Theo số liệu thống kê, “đến năm 2011, Hàn Quốc đã hỗ trợ ODA cho các nước tiểu vùng khoảng 421,87 triệu USD, chiếm khoảng 60% số ODA giải ngân cho cả khu vực ASEAN” (Nguyễn Thị Thắm, 2015). Trong đó, số ODA đã giải ngân của Hàn Quốc cho Việt Nam năm 2011 là 30,08 triệu USD. Bên cạnh đó, khu vực này còn tiếp nhận nhiều nguồn vốn đầu tư từ Mỹ, Ấn Độ, Liên minh EU.

Về đầu tư trực tiếp của Việt Nam vào GMS, theo số liệu báo cáo tại diễn đàn tài nguyên Mê Công lần thứ II (2013), “Đến năm 2012, Việt Nam đã đầu tư vào hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng vốn đầu tư lên tới 13.5 tỷ USD. Trong đó, đầu tư ra các nước Tiểu vùng sông Mê Công chiếm tới hơn 50% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài” (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2013). Trong các quốc gia tiếp nhận đầu tư của Việt Nam, “Lào đứng thứ nhất với 222 dự án đầu tư và 3.9 tỷ USD vốn đăng ký; Campuchia đứng thứ 2 với 120 dự án và 2,64 tỷ USD vốn đăng ký. Mặc dù mới mở cửa thị trường từ năm 2010, Mianma cũng đã tiếp nhận 7 dự án đầu tư với tổng số vốn 460 triệu USD từ Việt Nam.  Mianma đứng thứ 6 trong số 60 quốc gia và vùng lãnh thổ tiếp nhận đầu tư của Việt Nam. Thái Lan xếp thứ 27 trong số các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư của Việt Nam với 7 dự án và 11 triệu USD” (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2013). Đến đầu năm 2016, “Việt Nam có 258 dự án được cấp phép đầu tư tại Lào với tổng vốn đăng ký 5,3 tỉ USD, thuộc nhóm dẫn đầu trong số hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có doanh nghiệp đầu tư tại Lào” (Ban Quan hệ Quốc tế, 2015). Các dự án đầu tư chủ yếu của Việt Nam ở các nước GMS bao gồm: khai thác và chế biến cao su, sản xuất đường, sản xuất thủy điện, khoáng sản…

Những thành tựu đạt được trong hợp tác đầu tư có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam trong việc cải thiện mạng lưới giao thông, phát triển cơ sở hạ tầng, giải quyết việc làm cho người lao động trong nước cũng như tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam phát huy những lợi thế của mình trong quá trình mở rộng đầu tư sang các nước trong khu vực và trên thế giới.

Về hợp tác du lịch: Việc thông qua dự án Phát triển du lịch bền vững GMS đã tạo điều kiện phát triển cơ sở hạ tầng du lịch tại các tỉnh thành của Việt Nam, giúp đỡ cho những cư dân nghèo có điều kiện vươn lên thoát nghèo nhờ buôn bán các sản phẩm du lịch cũng như quảng bá du lịch Việt Nam đến du khách các nước GMS và các nước khác trên thế giới. Trong những năm trở lại đây, lượng khách quốc tế đến Việt Nam và các nước GMS tăng đáng kể.  Theo số liệu thống kê năm 2012, “lượng khách du lịch quốc tế đến khu vực GMS đã đạt gần 44 triệu lượt khách. Tại Việt Nam, 11 tháng năm 2013, đón 6,85 triệu lượt khách du lịch quốc tế, tăng trên 10%. Tính riêng lượng khách từ các nước khác trong Tiểu vùng đạt khoảng 2,4 triệu lượt, chiếm 35% tổng lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam” (http://www.vilacaed.org.vn).

Trong hợp tác phát triển nguồn nhân lực: Sau khi triển khai thực hiện Khung chiến lược phát triển nguồn nhân lực trong GMS và Kế hoạch hành động (2009 – 2012) đã góp phần giải quyết được vấn đề đào tạo, phát triển kỹ năng cho nguồn nhân lực cho Việt Nam và các nước GMS. Qua đó đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tiếp nhận nhiều nguồn vốn tài trợ không hoàn lại từ phía ADB đối với công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân, vấn đề  hợp tác phòng chống dịch bệnh.

Đối với hợp tác bảo vệ môi trường: Trong giai đoạn này, Việt Nam đã tích cực phối hợp với các nước GMS triển khai thực hiện Chương trình Môi trường trọng điểm trong cả hai giai đoạn nhằm góp phần giải quyết các vấn đề môi trường trong quá trình phát triển kinh tế tiểu vùng. Chương trình đã thu hút sự quan tâm đầu tư của nhiều quốc gia và các tổ chức môi trường thế giới. Trong giai đoạn I (2005 – 2012), Chương trình nhận được sự quan tâm, tài trợ bởi “Chính phủ Phần Lan (4,9 triệu USD); Hà Lan (14 triệu USD); Thụy Điển (10 triệu USD); Quỹ hợp tác xóa đói giảm nghèo (550 nghìn USD); Quỹ Trung Quốc (500 nghìn USD); ADB (1,62 triệu USD) và các nước GMS đóng góp khoảng 600 nghìn USD” (Asian Development Bank, 2009). Giai đoạn II (2012 – 2016), chương trình thu hút vốn đầu tư với 26,5 triệu USD. Trong đó, “ADB đã đảm bảo kinh phí 14.800.000 USD; Quỹ Hỗ trợ kỹ thuật đặc biệt (800 ngìn USD) và 14,0 triệu USD từ Chính phủ Phần Lan” (Asian Development Bank, 2012). Tại Việt Nam, Chương trình được giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan chủ quản và Tổng cục Môi trường là chủ dự án. Thông qua chương trình có 34 triệu USD được đầu tư cho hành lang bảo tồn đa dạng sinh học vùng Trung Trường Sơn, Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam còn tiến hành lồng ghép chương trình bảo vệ môi trường vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.

Trong hợp tác quản lý nguồn nước sông Mê Công: Để bảo vệ nguồn nước, Việt Nam đã phối hợp với các nước phía hạ lưu sông Mê Công, bao gồm: Thái Lan, Lào và Campuchia thông qua Chiến lược phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài nguyên nước cho hạ lưu vực sông Mê Công nhằm tạo thuận lợi cho các quốc gia hạ lưu vực sông Mê Công có thể ứng phó với những thay đổi về biến đổi khí hậu, cũng như dỡ bỏ những rào cản lâu nay giữa các quốc gia để hiện thực hoá các cơ hội cho phát triển bền vững dòng sông Mê Công.

Có thể khẳng định, những thành tựu đạt được trong hợp tác giữa Việt Nam với các nước GMS giai đoạn 1992 – 2016 có ý nghĩa to lớn, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trong GMS. Trong giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2007, GDP đầu người tính theo giá USD hiện hành của Trung Quốc đã tăng gấp bốn lần, lên mức 2370 USD, của Campuchia - cũng tăng hơn gấp đôi, lên mức trên 550 USD, của Lào - tăng khoảng 80%, lên mức 630 USD, của Thái Lan - tăng khoảng 20%, lên mức 3400 USD và của Việt Nam - tăng gấp gần 3 lần, lên mức 770 USD(Nguyễn Hồng Nhung, 2010).

Ngoài ra, thông qua quá trình tham gia những dự án hợp tác với các nước GMS, đặc biệt là những dự án liên quan đến lĩnh vực hợp tác du lịch, thương mại, đầu tư cũng góp phần hỗ trợ cho Việt Nam trong giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nhất là đối với công tác xóa đói giảm nghèo. Theo số liệu thống kê, “tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam từ 58,1% giảm xuống còn 19,5% vào năm 2003” ” (Hoàng Viết Khang, 2009). Bên cạnh đó, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam và các nước GMS cũng được cải thiện đáng kể. Số liệu thống kê từ ADB cho thấy, “trong giai đoạn 1995 - 2006, HDI của Trung Quốc tăng từ 0,655 lên 0,762, đứng thứ 94 trong 179 nước được xếp hạng trên thế giới, của Campuchia  từ 0,511 lên 0,575 và đứng thứ 136, của Lào từ 0,516 lên 0,608 và đứng thứ 133, của Thái Lan từ 0,721 lên 0,768, đứng thứ 81 và của Việt Nam từ 0,645 tên 0,718 và đứng thứ 114 (Nguyễn Hồng Nhung, 2010).

2.2.2 Những tác động tiêu cực

Ngoài những tác động tích cực nêu trên, tham gia hợp tác với các nước GMS cũng gây ra nhiều hạn chế, tiêu cực đối với Việt Nam. Việc tăng cường liên kết các tuyến hành lang kinh tế đã tạo thuận lợi cho giao thông, thương mại giữa Việt Nam với các nước GMS diễn ra khá dễ dàng và thuận tiện. Nhưng mặt khác nó cũng dẫn đến nạn buôn lậu, buôn bán ma túy khó kiểm soát được trong khu vực. Trong những năm gần đây, tình trạng nạn buôn bán ma túy đang có xu hướng gia tăng do nơi đây có vùng “Tam giác vàng” và “Trăng lưỡi liềm vàng” – là trung tâm sản xuất, buôn bán ma túy lớn trên thế giới nên Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp của hoạt động tội phạm tại các khu vực này. Loại tội phạm này thường tập trung nhiều tại khu vực biên giới giáp giữa Việt Nam với Lào, Campuchia và Trung Quốc. Nơi đây các tội phạm thường tổ chức mua bán, vận chuyển heroin, ma túy tổng hợp với số lượng lớn. Nếu tính riêng tại Việt Nam, “đến cuối năm 2012, lực lượng phòng chống tội phạm ma túy Việt Nam đã triệt phá gần 19.600 vụ với 29.786 người liên quan, tăng hơn 2 nghìn vụ và gần 5 nghìn đối tượng so với 2011, thu giữ gần 400kg heroin, hơn 74kg thuốc phiện, 134kg cần sa khô, gần 130kg và hơn 335 nghìn viên ma túy tổng hợp, so với 2011, nhiều hơn 183kg heroin, 87kg và hơn 200 nghìn viên ma túy tổng hợp” (www.danang.gov.vn). Từ đó gây ra nổi ám ảnh đối với người dân, đe dọa tình hình an ninh trật tự của Việt Nam và các nước GMS.

Bên cạnh đó, hệ thống giao thông vận tải của Việt Nam và các nước GMS mặc dù có sự cải thiện đáng kể do sự kết nối các tuyến hành lang kinh tế, song sự phát triển trong hệ thống giao thông vẫn chưa đồng đều tại các nước Lào, Campuchia, Việt Nam và Mianmar. Tại các nước này, tình trạng đường sá vẫn còn nhỏ hẹp, nhất là các khu vực vùng sâu, vùng xa, hệ thống sân bay, bến cảng, nhà ga vẫn còn thiếu thốn, tiến độ đầu tư xây dựng một số dự án, công trình mới tại các nước này còn chậm; nguồn vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng còn ít…Những hạn chế, yếu kém nêu trên đã gây khó khăn, cản trở đến quá trình hợp tác thương mại, chuyên chở hàng hóa giữa Việt Nam với các nước GMS.

Trong hợp tác thương mại, mặc dù giữa Việt Nam và các nước GMS đã tham gia ký kết Hiệp định vận tải xuyên biên giới, nhưng trong quá trình thực hiện hiệp định còn nhiều bất cập. Chẳng hạn như giữa các nước chưa triển khai đầy đủ và chưa có sự thống nhất trong các thủ tục xuất nhập cảnh, nhiều thủ tục giấy tờ tại các cửa khẩu, tờ khai phương tiện qua các cửa khẩu chưa thống nhất cũng gây phiền hà cho quá trình vận chuyển hàng hóa, gây lãng phí thời gian của doanh nghiệp. Chẳng hạn như tờ khai tại cửa khẩu Lào – Thái chỉ cần điền 6 thông tin cần thiết trong khi đó tại cửa khẩu giữa Việt Nam và Lào, tờ khai có đến 45 thông tin.

Mặt khác, trong những năm qua, Việt Nam và các nước GMS quan tâm nhiều đến hợp tác phát triển kinh tế nhưng chưa chú ý đến vấn đề bảo vệ môi trường, tình trạng xây dựng các cơ sở hạ tầng để phát triển du lịch, cùng với việc xây dựng các tuyến hành lang kinh tế đã làm cho diện tích rừng trong khu vực GMS bị suy giảm nghiêm trọng, nhiều nơi rừng không còn có thể tái sinh, đất trở thành đồi trọc. Theo số liệu báo cáo từ WWF cho thấy: “Từ 1973 đến 2009, 5 quốc gia trong khu vực tiểu vùng sông Mê Công mở rộng mất gần một phần ba diện tích rừng che phủ còn lại. Trong thời gian này, Campuchia mất 22% diện tích rừng của năm 1973, Lào và Mianmar mất 24%, Thái Lan và Việt Nam mất tới 43% (https://vnexpress.net). Diện tích rừng giảm kéo theo nhiều hệ lụy như: khả năng giữ nước hạn chế, làm tăng khả năng lũ quét, tác động tiêu cực đến môi trường sống của người dân Việt Nam.

Một trong những tác động tiêu cực ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình tham gia hợp tác của Việt Nam trong GMS, đó là sự xuất hiện mâu thuẫn lợi ích quốc gia trong việc khai thác nguồn nước sông Mê Công. Không ai có thể phủ nhận những lợi ích, trực tiếp hay gián tiếp mà sông Mê Công mang lại từ những góc độ khác nhau. Đối với doanh nghiệp và nhà đầu tư, lợi ích từ dòng sông là thủy điện, năng lượng. Đối với các chính phủ, đó có thể là nguồn thu cho ngân sách quốc gia, cơ hội phát triển và đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước. Đối với những cộng đồng ven sông, dòng sông mang lại những nguồn lợi đảm bảo sinh kế và sinh hoạt hàng ngày. Khoảng 70 – 80% lương thực sản xuất ở các quốc gia Thái Lan, Lào, Mianmar và Việt Nam đều lấy nước từ sông Mê Công, khoảng 50% diện tích lưu vực sông Mê Công được sử dụng để sản xuất nông nghiệp, gần 70 triệu dân dọc theo lưu vực sông Mê Công sử dụng nguồn nước này để sản xuất, sinh sống và sinh hoạt hàng ngày. Do đó, tài nguyên nước sông Mê Công được khẳng định là quan trọng nhất. Chính vì vậy, khi khai thác nguồn lợi từ sông Mê Công, các nước trong GMS đều xuất phát từ những mục đích khác nhau. Trung Quốc đã ngang nhiên xây dựng nhiều dự án thủy điện trên dòng chính sông Mê Công mà không thông qua sự trao đổi, tham khảo ý kiến từ các nước hạ lưu. Lào cũng muốn tận dụng tối đa nguồn nước Sông Mê Công để phát triển hệ thống thủy điện nhằm phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, trong khi đó Thái Lan sử dụng nguồn nước để phục vụ công tác tưới tiêu, Campuchia cũng có “ý đồ” khai thác nguồn nước sông Mê Công để phát triển hệ thống thủy điện, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Còn tại Việt Nam, lợi ích nổi bậc nhất trong khai thác nguồn nước sông Mê Công là phục vụ phát triển nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên.

Chính những điều này đã, đang và sẽ ảnh hưởng mnh mẽ đến nguồn nước sông Mê Công và các hsinh thái trong lưu vực, đẩy hàng triệu người dân đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Trong đó, Việt Nam do nằm ở cuối nguồn nên sẽ chịu tác động nhiều nhất mọi biến động thiên nhiên và hoạt động của con người ở các quốc gia phía thượng lưu. Theo báo cáo đánh giá môi trường chiến lược thủy điện dòng chính Mê Công do Trung tâm Quản lý Môi trường Quốc tế (ICEM) thực hiện cho Ủy hội sông Mê Công năm 2010 đã nhận định: Việt Nam “có khả năng tổn thất lớn nhất về kinh tế” do tác động tiềm tàng nếu hệ thống đập dòng chính được xây dựng. Những tổn thất Việt Nam có thể gánh chịu chưa thể tính toán hết, nhưng có thể dự đoán một số tác động bao gồm: Suy giảm lượng phù sa bồi đắp cho đồng bằng từ 26 triệu tấn/năm hiện nay xuống 7 triệu tấn/năm; Thủy sản biển, nước ngọt và nuôi trồng đều sẽ bị ảnh hưởng với ước tính tổn thất ít nhất từ 500 triệu đến 1 tỉ USD mỗi năm. Và tổn thất nặng nề nhất là khi thiếu nguồn nước từ sông Mê Công đổ về sẽ tạo điều kiện cho xâm nhập mặn từ biển Đông lấn sâu vào đất liền. Thời gian xâm nhập mặn đến sớm hơn và kéo dài hơn vào mùa khô khi nguồn nước sông Mê Công đến khu vực hạ lưu bị suy giảm, gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Như vậy, có thể thấy rằng, các nước GMS khi khai thác nguồn nước sông Mê Công đều xuất phát từ những lợi ích khác nhau và giữa các nước chưa có sự thống nhất trong nhận thức cũng như trong hàng động. Chính điều này đã tạo nên mâu thuẫn rất lớn giữa các quốc gia. Mâu thuẫn này đòi hỏi các nước cần có hướng giải quyết thấu đáo sao cho đảm bảo lợi ích giữa các quốc gia nhưng vẫn không ảnh hưởng đến lợi ích chung của khu vực.

3. KẾT LUẬN

Việt Nam tham gia hợp tác vào GMS từ năm 1992 và là thành viên sáng lập nên tổ chức này. Cũng giống như các nước thành viên trong GMS, Việt Nam nhận thức sâu sắc vấn đề tăng cường hợp tác với các nước GMS nhằm đạt được mục tiêu phát triển bền vững khu vực GMS. Thông qua việc tham gia nhiều lĩnh vực hợp tác, Việt Nam đã tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông, đẩy mạnh trao đổi thương mại, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư từ các nước trong và ngoài khu vực, đồng thời thúc đẩy hợp tác du lịch giữa Việt Nam với các nước GMS.

Có thể thấy rằng, tham gia hợp tác với các nước GMS đã mang lại nhiều tác động tích cực đối với Việt Nam, nhưng đồng thời nó cũng tạo ra những hạn chế, tiêu cực, trong đó vấn đề sử dụng nguồn nước sông Mê Công là vấn đề đáng lo ngại. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục tăng cường hợp tác với các nước GMS để tận dụng tối đa những cơ hội, đồng thời tích cực khắc phục những khó khăn, thách thức. Qua đó góp phần phát triển kinh tế - xã hội cũng như nâng cao vị thế của Việt Nam trong GMS.

Tài liệu tham khảo

Asian Development Bank, 2009. Core Emvironment Phogram and Biodiversity conservation corridors Initiative in the Greater Mekong Subregion, Progress Report for the Period July – December 2008, 22 pages.

Asian Development Bank, 2012. Core Emvironment Phogram and Biodiversity conservation corridors initiate 2006 – 2012, Phase Completion Report, 9 pages.

Ban Quan hệ Quốc tế, 2015. Hồ sơ thị trường Lào,  đăng trang web: vcci.com.vn, 15 trang.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Quản lý Đầu tư Nước ngoài, 2013. Báo cáo đầu đầu tư trực tiếp của Việt Nam ở một số nước Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng, HN.

Bộ Y tế, 2009. Ước tính và dự báo nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam năm 2007 – 2012, HN, trang web: www.vaac.gov.vn, 41 trang.

Công Tâm, Hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả phòng chống ma túy, cập nhật ngày 06-12-2012 trên trang web: www.danang.gov.vn,

Lê Thị Diệp, 2013. Trung Quốc tham gia hợp tác tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS) giai đoạn 2002 – 2012, Trường Đại học Sư phạm – Thành phố Hồ Chí Minh.

Hội nghị Phổ biến Chiến lược Du lịch ASEAN, 2016. Kế hoạch chiến lược du lịch ASEAN 2016 – 2025, HN ngày 30/03/2016, 82 trang.

Mekong River Commission cited in, 2004. Giant fish of the Mekong in battle for survival, Jon Bugge. Phnom Penh Post, Issue 13/06, March, p.12 - 25.

Mekong River Commission, 2010. State of the Basin Report 2010. Vientiane, 23 pages.

Nguyễn Hoàng Huế, 2014. Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang kinh tế Đông – Tây (1998 – 2010), Luận án Tiến sĩ Lịch sử Thế giới, Đại học Huế, 170 trang.

Hoàng Viết Khang, 2009. Hợp tác kinh tế Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng – Hiện trạng, vấn đề và giải pháp,  Viện Kinh tế và Chính trị thế giới, HN, 187 trang.

Nguyễn Bích Ngọc, 2015. Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở rộng: Thành tựu, thách thức và sự tham gia của Việt Nam, Tạp chí Nhịp cầu Tri thức, số 3+4, 22 – 25.

Nguyễn Hồng Nhung, 2010. Xác định lại vị trí địa kinh tế của tiểu vùng sông Mê Công mở rộng và hàm ý cho Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông, số 2 (54), 32 – 41.

Nguyễn Thị Thắm, 2015. Sự can dự của các nước Đông Bắc Á vào Tiểu vùng sông Mê Kông, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 295 trang.

https://www.adb.org/vi/countries/viet-nam, cập nhật ngày 12/02/2016.

http://baodautu.vn/khai-thac-tiem-nang-du-lich-tieu-vung-me-kong-mo-rong-html, cập nhật ngày 18/06/2015

https://vnexpress.net/tin-tuc/khoa-hoc/nguy-co-mat-dien-tich-rung-o-tieu-vung-song-mekong-2743395.html, cập nhật ngày 3/5/2013.

http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/8135. Báo cáo hoạt động dự án Phát triển du lịch bền vững tiểu vùng sông Mê Kông, cập nhật ngày  27/06/2011

http://www.vilacaed.org.vn/hop-tac-du-lich-trong-tieu-vung-me-kong-mo-rong/, cập nhật ngày 09/01/2014.

 

[1] Giảng viên trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TPHCM

[2] Trung Quốc tuy có hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây thuộc không gian Tiểu vùng nhưng Trung Quốc tham gia với tư cách một quốc gia, trong đó tỉnh Quảng Tây tham gia vào các hoạt động của GMS năm 2005 theo đề nghị của Trung Quốc.