Ths. Huỳnh Tuấn Linh
Giảng viên Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp.HCM
Ths. Phạm Xuân Hưởng
Chuyên viên Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm Tp.HCM
TÓM TẮT

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 sẽ tạo ra sự thay đổi vô cùng lớn trong mọi mặt đời sống xã hội và đây cũng chính là thách thức đối với ngành giáo dục trong việc đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu mới của thời đại.Vì vậy, muốn hòa nhập vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, vào nền kinh tế số, yếu tố then chốt là Việt Nam cần cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo; phải xây dựng được mô hình xã hội học tập tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân học tập suốt đời, mọi lúc, mọi nơi. Đây là nhiệm vụ cấp thiết trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: cách mạng công nghiệp 4.0, xã hội học tập, giáo dục 4.0

NỘI DUNG

Con đường bước vào kỷ nguyên mới đã được xác định là con đường phát triển chủ yếu dựa vào các nguồn lực thông tin và tri thức, với xu thế toàn cầu hóa lôi cuốn sự hội nhập của tất cả các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, dù nền giáo dục hiện tại của Việt Nam còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục, song những điều ấy cũng không thể ngăn cản chúng ta nghĩ về một mô hình học tập mới - mô hình xã hội học tập thông qua tác động tích cực của cách mạng công nghiệp 4.0
1. Xã hội học tập và sự cần thiết của việc xây dựng xã hội học tập trong thời đại cách mạng 4.0
Quan niệm về xã hội học tập
Trong điều kiện khoa học - công nghệ ngày càng phát triển, tri thức nhân loại ngày càng phong phú, các chính sách tiến bộ về chính trị - kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia đã được thực thi với đời sống vật chất và tinh thần của người dân dần được nâng cao, thì nhu cầu học tập để tăng cường hiểu biết, phát triển nghề nghiệp, làm phong phú cho cuộc sống cá nhân và tăng cơ hội giao lưu, hội nhập thế giới… đang ngày càng trở nên cấp thiết. Điều này cũng tác động mạnh đến quá trình dạy và học truyền thống, làm thay đổi không chỉ về hình thức mà cả về triết lý thiết kế và triển khai mô hình giáo dục. Và cũng từ đó mà xuất hiện mô hình xã hội học tập.
Thuật ngữ “xã hội học tập” lần đầu tiên xuất hiện trong báo cáo của UNESCO có tựa đề “Học để tồn tại; thế giới giáo dục hôm nay và ngày mai”. Nội dung của nó bao gồm hai khía cạnh song hành, quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất, mọi tổ chức, mọi tập thể, mọi cá nhân theo khả năng của mình đều có thể cung ứng cơ hội học tập cộng đồng. Thứ hai, mọi người dân trong cộng đồng đều có thể tận dụng cơ hội để có thể có cơ hội học tập và tham gia phát triển giáo dục cộng đồng, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân.
Theo tác giả Nguyễn Trần Bạt trong bài “Xã hội hoá giáo dục”, thì xã hội hóa giáo dục hay xã hội học tập là tinh thần, là nội dung quan trọng nhất của cải cách giáo dục, bảo đảm sự thành công của cải cách giáo dục, tác giả khẳng định: “Xã hội hóa giáo dục có nghĩa là Nhà nước tạo ra không gian xã hội, pháp luật và chính trị cho việc hình thành một khu vực giáo dục mà ở đấy ai cũng có quyền đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, thực hiện sự cạnh tranh về chất lượng giáo dục, tức là giáo dục phải thuộc về xã hội”[1, tr 39].
Như vậy, xã hội học tập là một xã hội mà mọi người đều được học, cần phải học và tự giác học thường xuyên, học suốt đời; mọi người được tiếp cận những cơ hội học tập thuận lợi và lấy tự học cùng với ý chí, nghị lực phấn đấu kiên trì của mình là chính để đem lại lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội; mọi người không phân biệt tuổi tác, ngành nghề, trình độ đều thấy học tập là nhu cầu của cuộc sống, luôn cần phải học và học suốt đời, học ở mọi nơi, mọi lúc. Trong xã hội học tập, mọi người được tạo điều kiện tối đa để bồi dưỡng các năng lực trí tuệ, khả năng tìm kiếm những tri thức cần thiết cho cuộc sống và hoạt động của mình trong môi trường của một nền kinh tế và xã hội liên tục biến đổi và phát triển. Nói một cách đơn giản, xã hội học tập là xã hội mà trong đó mọi người đều phải học, được học và được tạo điều kiện tốt nhất để học. Mục tiêu của xã hội học tập không chỉ đơn thuần là nhằm nâng cao dân trì theo nghĩa “xóa mù chữ” mà phải là “xóa mù phương tiện mới”. Chữ phương tiện ở đây có thể hiểu một cách khái quát là các phương thức, công cụ mà con người trong một xã hội hiện đại cần nắm vững để sống và phát triển. Những thành tựu vĩ đại của khoa học –công nghệ đã làm cho các phương tiện này thay đổi không ngừng, bởi thế con người phải học tập không ngừng, học tập suốt đời, không chỉ cá nhân học tập mà cả loài người phải học tập.
Thực tế ở nhiều quốc gia phát triển cho thấy, xã hội học tập đã thực sự góp phần quan trọng vào việc xây dựng và nâng cao chất lượng nguồn lực chung cho sự phát triển, cải thiện về môi trường kinh tế - xã hội cho cộng đồng, thay đổi diện mạo văn hóa cộng đồng và nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Nhờ xây dựng được xã hội học tập, mỗi cá nhân đều được nâng cao khả năng thích ứng, hòa nhập và phát triển nhân cách. Vì những lý do trên có thể thấy rõ xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội học tập suốt đời đang là xu thế tất yếu, là mục tiêu mang tính thời đại của mọi nền giáo dục trên thế giới.
Sự cần thiết của việc xây dựng xã hội học tập trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0
Xã hội học tập là xu hướng tất yếu trong giáo dục Việt Nam kể cả các nền giáo dục khác trên thế giới. Xu hướng này đã được cụ thể hóa và hiện thực hóa một cách mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên khắp các châu lục. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và trong thời đại kinh tế tri thức , việc xây dựng xã hội học tập hay xã hội toàn dân học tập, quốc gia học tập… đã trở nên phổ biến đối với nhiều quốc gia dân tộc.
Ở Việt Nam, xã hội học tập là một tư tưởng chiến lược của Đảng và Nhà nước, bản thân tư tưởng đó qua mỗi giai đoạn được phát triển, mở rộng phong phú cả về hình thức và nội dung. Trong các văn kiện từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng nhất quán chủ trương thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội cho mọi người đều có thể được học tập suốt đời. Chủ trương trên của Đảng xác lập một quan niệm rõ ràng về xã hội học tập với tư cách là một thể thống nhất giữa hệ thống giáo dục ban đầu (bao gồm trường, lớp và cơ sở giáo dục chính quy từ nhà trẻ, mẫu giáo đến đại học) và hệ thống giáo dục tiếp tục (với nhiều hình thức giáo dục chính quy và không chính quy tại các cơ sở đào tạo tại chức, cơ sở đào tạo ngoại ngữ, tin học, đào tạo và đào tạo lại qua các khóa học, lớp học ngắn hạn...). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục - đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời. Nhận thức rõ vai trò, vị trí, ý nghĩa của việc xây dựng xã hội học tập, ngày 18-5-2005, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005 - 2010” với tiêu chí tổng quát là tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi để mọi người ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học tập thường xuyên, học liên tục, học suốt đời ở mọi lúc, mọi nơi, mọi trình độ; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia xây dựng và phát triển giáo dục; mọi người, mọi tổ chức đều có trách nhiệm, nghĩa vụ trong học tập và tích cực tham gia xây dựng xã hội học tập. Ngày 09-01-2013, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2012 - 2020” để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập tại nước ta. Đề án đã nêu rõ quan điểm: mọi cá nhân có trách nhiệm học tập thường xuyên, suốt đời, tận dụng mọi cơ hội học tập để làm người công dân tốt; có nghề, lao động với hiệu quả ngày càng cao; học cho bản thân và những người xung quanh hạnh phúc; học để góp phần phát triển quê hương, đất nước và nhân loại.
Như vậy xã hội học tập là một nhân tố mới đã và đang phát huy sức mạnh đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Chính xã hội hóa công tác giáo dục lại tạo ra những những điều kiện, những tác nhân làm xuất hiện những nhân tố mới trong quá trình đi lên của phong trào giáo dục. Những kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn thực hiện xã hội hóa giáo dục, trên cơ sở đó nâng cao sự đổi mới tư duy giáo dục, giải quyết kịp thời những vấn đề đặt ra của sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo. Điều 12, Luật giáo dục 2005 cũng ghi rõ: Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân; thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. GS.TS Nguyễn Thị Doan, nguyên Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam đã khẳng định: “Xây dựng Công dân học tập, Đơn vị học tập và Xã hội học tập ở Việt Nam là con đường duy nhất đến với cách mạng 4.0” [2].
Bản chất xã hội của xã hội học tập hay xã hội hóa giáo dục là tổ chức thực hiện xây dựng một nền giáo dục dân chủ, công bằng - nền xã chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Giảm bớt được gánh nặng và sự bao cấp về đầu tư ngân sách cho giáo dục. Bên cạnh đó, xã hội hoá giáo dục chính là “giáo dục cho tất cả mọi người; tất cả mọi người cho sự nghiệp giáo dục”. Hơn bất kỳ giai đoạn nào trước đây, ngày nay quyền được học, quyền được chia sẻ thông tin và tri thức thực sự trở thành đặc điểm cơ bản nhất của sự bình đẳng trong xã hội, và bất kỳ một xã hội dân chủ nào cũng cần phải chăm lo đến việc thực hiện quyền đó của công dân. Hiện nay xu hướng toàn cầu hóa cũng như việc mở rộng kinh tế thị trường với sự tác động mạnh mẽ của những thành tựu khoa học kỹ thuật đem lại những cơ hội bình đẳng cho mọi người trong việc tiếp cận tri thức, nhưng đó chỉ là bề nổi nếu chúng ta không thật sự xây dựng được nền tảng học tập dân chủ từ mô hình xã hội học tập. Do vậy, trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì vấn đề đặt ra cho mọi quốc gia trên thế giới và mọi người là phải làm sao để có thể thích nghi, ứng phó một cách linh hoạt với sự biến đổi không lường của thế giới. Việc này cần kỹ năng và tri thức cao, tức là cần một sự phát triển giáo dục không ngừng và việc học tập ngày càng phải rộng rãi và công bằng. Đây chính là vai trò quan trọng mà xã hội học tập đem lại cho con người. Do đó, phải đưa giáo dục gắn với xã hội, với cộng đồng; giáo dục phục vụ mục tiêu xã hội, phục vụ cộng đồng. Cơ sở tư duy của xã hội hoá giáo dục là đặt giáo dục vào đúng vị trí của nó. Giáo dục là bộ phận không thể tách rời của hệ thống xã hội. Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là động lực phát triển kinh tế xã hội.
Xây dựng xã hội học tập còn là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thời đại. Kinh nghiệm phát triển giáo dục ở các quốc gia trên thế giới cho thấy đầu tư cho học tập là việc đầu tư mang lại hiệu quả cao nhất, tạo sự chuyển biến lớn nhất đối với sự phát triển. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho con người, vì con người mà con người lại là động lực duy nhất quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Những bước nhảy vọt của cách mạng công nghiệp 4.0 đặt ra nhiều thách thức và phát sinh thêm rất nhiều ngành nghề mới trên thị trường lao động. Sự thay đổi này đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học cả tư duy, những kiến thức kỹ năng mới, khả năng sáng tạo, thích ứng với thách thức và những yêu cầu mới… mà các phương pháp giáo dục truyền thống không thể đáp ứng.
Hướng tới giai đoạn cách mạng công nghiệp lần thứ 4, sự hội tụ của các công nghệ cao ở đỉnh cao trí tuệ, đòi hỏi về con người có trí tuệ, khoa học, nhiều nhân tài ứng dụng và không ngừng sáng tạo. Do đó, vai trò số một của “con người là trung tâm” của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 phải là lớp người trẻ, bắt nguồn từ sự “đam mê”, góp phần lan tỏa trong giới trẻ, trong cộng đồng. Đi kèm với đó là môi trường giáo dục, tổ chức giáo dục, thực hành giáo dục, đầu tư cho con người, phương tiện và cả công cụ giáo dục có ý nghĩa cho sự thành công của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Và nhiệm vụ khuyến học, khuyến tài, xây dựng một xã hội học tập suốt đời có ảnh hưởng, tác động rất lớn tới viêc phát huy tài năng, trí tuệ của con người, của mỗi cá nhân. Vì lẽ đó, để có nguồn nhân lực dồi dào phục vụ cách mạng công nghệ, yêu cầu đang đặt ra là ngay lúc này rất cần xây dựng những: Gia đình học tập 4.0; Dòng học học tập 4.0; Đơn vị học tập 4.0; Cộng đồng học tập 4.0
Như vậy, để phát triển nền giáo dục cả trong hiện tại và tương lai, xây dựng xã hội học tập là nền tảng, là cốt lõi, nó vừa là phương châm, vừa là giải pháp, vừa là mục tiêu của sự nghiệp giáo dục. Nghĩa là cần phải xây dựng một hệ thống giáo dục sao cho bất cứ công dân nào có nhu cầu học tập đều tìm thấy cơ hội học tập thuận lợi, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh trong những thời gian và không gian khác nhau.
2. Tác động của cách mạng 4.0 trong việc thúc đẩy hình thành xã hội học tập
Khái niệm "công nghiệp 4.0" được đưa ra vào năm 2011 tại Hội chợ Hannover, giới thiệu các dự kiến của chương trình công nghiệp 4.0 của nước Đức, nhằm nâng cao nền công nghiệp cơ khí truyền thống của Đức. Không chỉ nước Đức với chương trình Công nghiệp 4.0, triển trong vài năm qua, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư lan rộng khắp thế giới như ngày hôm nay là do trong thực tế, tốc độ phát triển và tác động của những đột phá trong công nghệ đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ chưa từng có. Các sáng chế và tiến bộ khoa học có mặt ở khắp các lĩnh vực, như trí tuệ nhân tạo, Robotics, in-tơ-nét vạn vật (IoT), xe tự lái, công nghệ sinh học, công nghệ Na-no, công nghệ in 3D, khoa học vật liệu, máy tính lượng tử,... tác động đến hầu hết các ngành công nghiệp với một tốc độ nhanh của hàm mũ.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra các sản phẩm và dịch vụ cho phép chúng ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Và “cách mạng công nghiệp” cũng hàm chứa sự thay đổi lớn lao, không chỉ biến đổi kinh tế mà còn biến đổi cả văn hóa, xã hội một cách toàn diện. Trong đó, việc học tập của con người cũng như mô hình học tập truyền thống có những biến chuyển nhất định. Những tác động sau đây của cách mạng 4.0 đã thúc đẩy nhanh việc hình thành mô hình xã hội học tập trong tương lai.
Thứ nhất, mục tiêu, nội dung học tập mở rộng và phát triển theo chiều sâu
Trong các cuộc cách mạng công nghệ trước đó, mục tiêu học tập chủ yếu là để làm chủ những kiến thức và kỹ năng cơ bản. Với thời đại cách mạng 4.0, giáo dục hướng tới phát triển cá nhân một cách tổng thể, toàn diện. Một trong những yêu cầu mà cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đặt ra là phải cải thiện nguồn vốn con người để có thể đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức và kỹ năng liên tục thay đổi trong môi trường lao động mới. Điều này đặt ra cho giáo dục và đào tạo phải xác định cho được mục tiêu cần thiết và quan trọng trong giai đoạn hiện nay là gì và từ đó đảm đương được sứ mệnh to lớn là chuẩn bị đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Vấn đề mà nhiều quốc gia đều nhận thấy và đặt ra đó là chuyển từ một nền giáo dục nặng về trang bị kiến thức, kỹ năng cho người học sang một nền giáo dục giúp phát triển năng lực, thúc đẩy đổi mới và sáng tạo cho người học, đáp ứng những yêu cầu đặt ra cho công dân trong thời đại Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Nếu trước kia chỉ có một trí thông minh duy nhất được công nhận là logic, coi việc đánh giá trì thông minh, chỉ số IQ là cốt yếu thì xã hội hiện đại công nhận đa trí thông minh như cảm xúc, vận động, ngôn ngữ… Từ đó, mục tiêu giáo dục đang hướng tới giúp mỗi người phát triển tối đa các trí thông minh tiềm ẩn của mình cũng như hình thành những kỹ năng mềm giúp con người thích nghi được với mọi sự thay đổi. Nếu trước đây học để làm cái đã học và làm cái mọi người đã làm, thì nay học để làm cái chưa làm mà chúng ta gọi là sáng tạo. Trước đây, học để tốt lên từng ngày thì giờ học để đột phá; điều quan trọng là học cách tìm ra vấn đề. Trước đây nghe theo và học thuộc là quan trọng, giờ cần hơn tư duy phản biện; trước dạy học "what", "how", giờ học "why" là quan trọng, vì biết tại sao mới có thể thay đổi và sáng tạo. Để hình thành năng lực trí tuệ, con người không chỉ đơn giản là nhồi nhét kiến thức một cách thụ động, mà trong thời đại mới, mục tiêu mới phải là tiếp thu tri thức qua việc học chủ động, biến tri thức học được thành tri thức của mình, biết cách tự tìm những tri thức mình cần muốn biết, từ đó hình thành kỹ năng vận dụng để tạo ra tri thức bền vững, đáp ứng được nhu cầu hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của bản thân.
Thứ hai, phương pháp, hình thức học tập đa dạng, linh hoạt trong đó phương pháp học trực tuyến là điển hình
Ngày nay, thực tiễn thay đổi, người học không còn thụ động tiếp thu tri thức được truyền đạt từ người thầy theo những phương pháp truyền thống, và bản thân họ cũng không cần những phương pháp mang tính hình thức ít đem lại hiểu quả thực òa. Những phương pháp này về mặt nào đó ít nhiều có vai trò nhất định đối với mô hình học tập truyền thống, khi công nghệ thông tin chưa phát triển. Nhưng giờ đây, cách mạng công nghệ như là cầu nối không chỉ kết nối con người với con người mà còn kết nối con người với tri thức, với thế giới rộng lớn bên ngoài con người. Do vậy, con người cũng cần có những phương pháp mới, những hình thức học tập có thể khơi gợi tiềm năng sáng tạo, mở ra cho họ cơ hội và động lực tích cực trong quá trình khám phá chân trời tri thức. Việc ứng dụng phổ biến công nghệ máy tính và truyền thông trong những năm gần đây đã thúc đẩy nhanh quá trình tin học hóa xã hội ở nhiều nước, đưa đến việc hình thành những kết cấu hạ thầng thông tin với các mạng và liên mạng quốc gia và toàn cầu, với các nguồn thông tin, tri thức phong phú, với các phương tiện giao lưu thông tin thuận lợi và linh hoạt, đang dần trở thành môi trường chủ yếu trên đó con người thực hiện các hoạt động thương mại, kinh doanh, giao lưu văn hóa…. Đây là môi trường thuận lợi cho việc phát triển nhiều phương pháp, hình thức học tập, giúp con người thực hiện được quyền được học, học liên tục, học suốt đời. đó có thể là phương pháp học tập từ xa, học thông qua dự án, học thông qua trò chơi, thậm chí là học thông qua việc đi du lịch….Trong các phương pháp đó thì phương pháp học trực tuyến là phương pháp nổi bật, có vai trò hiệu quả nhất trong việc đẩy nhanh tiến trình xã hội học tập.
Phương pháp học trực tuyến
Học tập trực tuyến là phương pháp học có sử dụng kết nối mạng để thực hiện việc học, lấy tài liệu học, giao tiếp giữa người học với nhau và với giáo viên, là hình thức truyền tải nội dung bằng phương tiện điện tử qua trình duyệt Web, ví dụ như Firefox, Chrome hay Internet Explorer thông qua mạng Internet/Intranet hay qua các hình thức khác như CD-ROM, DVD broadcast video, nội dung theo yêu cầu (content on demand) hay virtual classrooms (lớp học ảo). Nói một cách khác, đào tạo trực tuyến là sự kết hợp của Internet và các công nghệ số tạo ra mô hình đào tạo trong đó các thông tin về giáo dục, đào tạo, các kiến thức và sự lĩnh hội được thực hiện thông qua các máy tính, Internet, các Website hoặc từ tổ chức mạng. Với cách học này, mọi người học đều có thể chủ động lựa chọn các bài giảng có sẵn trên mạng theo nhu cầu bản thân. Ngoài ra, người học còn có thể lựa chọn giáo viên thích hợp, tương tác với giáo viên và các bạn cùng học mọi lúc, mọi nơi thông qua nền tảng Internet và thiết bị công nghệ. Như vậy, với việc học không bị giới hạn bởi không gian và thời gian thông thường; phá bỏ được những trở ngại về khoảng cách địa lý và giờ học của lớp học tập trung thông thường, nhiều người tại những địa điểm khác nhau đều có thể học tập, chi phí học tiết kiệm, phương pháp học trực tuyến là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự hình thành mô hình xã hội học tập trong tương lai.
Thứ ba, cách mạng công nghiệp 4.0 làm thay đổi nhận thức của con người đối với việc học, cụ thể nó giúp con người nhận thấy được sự cần thiết tuyệt đối của việc tự học tập, tự giác tìm tòi tri thức trong kho tàng trí tuệ vô tận của nhân loại.
Học tập trong quá khứ thường mang tính thụ động. Người học chủ yếu tham gia các chương trình giáo dục đã được xây dựng sẵn, có khuôn mẫu chung cho số đông và tiếp cận kiến thức một chiều. Ngày nay, theo đòi hỏi của giáo dục hiện đại, người học buộc phải tăng tính chủ động, khả năng tự định hướng các kiến thức mình cần và xây dựng lộ trình học tập riêng theo đòi hỏi của từng cá nhân. Trong xã hội học tập, dưới tác động của cách mạng 4.0 thì yêu cầu về một năng lực trí tuệ đủ để chủ động nắm bắt và vân hành công nghệ là vô cùng bức thiết. Và để có năng lực đó, con người buộc phải chú ý đến quá trình tự học, tự giác học tập, học liên tục, học suốt đời.
Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ bài học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu, từ đó có khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ học tập mới. Đồng thời, tự học giúp người học hình thành được tính tích cực, độc lập tự giác trong học tập cũng như nề nếp làm việc khoa học. Theo Aditxterrec: “Chỉ có truyền thụ tài liệu của giáo viên mà thôi thì dù có nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không đảm bảo được việc lĩnh hội tri thức của học sinh. Nắm vững kiến thức thực sự lĩnh hội chân lý, cái đó học sinh phải tự mình làm lấy bằng trí tuệ của bản thân” [3].
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Hơn nữa, với sự phát triển của công nghệ, mạng internet, việc tự học không chỉ giới hạn trong các giờ học trên lớp, với sự hướng dẫn trực tiếp của giáo viên nên càng làm tăng động lực và hứng thú tự giác tìm tòi, chiếm lĩnh tri thức từ đó có những sáng tạo, đột phá vượt bậc. Trong hiện tại và tương lai, nền giáo dục của một quốc gia phải xem việc tổ chức một hệ thống học tập cho toàn xã hội với các hình thức hỗ trợ tự học như học trực tuyến, học từ xa, học qua mạng… là một nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên. Có thể nói, hình thành xã hội học tập nhưng phải dựa trên cơ sở cá nhân hóa việc học, mà biểu hiện cốt lõi của cá nhân hóa việc học là khả năng tự học của mỗi người.
Thứ tư, cách mạng công nghiệp 4.0 tác động đến việc hình thành năng lực học tập suốt đời – mục tiêu cơ bản của xã hội học tập.
Ngày nay, trong thời đại nền kinh tế tri thức, trong tiến trình đổi mới đất nước, trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thì việc học tập và học tập suốt đời đang đặt ra cho chúng ta một thách thức to lớn. “Học tập suốt đời là chìa khóa của mọi thành công”, “Thế giới tiến bộ không ngừng, ai không học là lùi”(Hồ Chí Minh), “Học, học nữa, học mãi”( Lênin), những khẩu hiệu, lời nói của cac bậc vĩ nhân đã chứng minh cho tầm quan trọng của việc học tập suốt đời trong thời đại hiện nay.
Giáo dục truyền thống trên thế giới tập trung vào độ tuổi từ trẻ mầm non tới hết giai đoạn phổ thông. Sau đó, người học trưởng thành lựa chọn con đường để phát triển nghề nghiệp theo sở thích hoặc năng lực. Giáo dục thời đại 4.0 đã mở rộng độ tuổi học tập qua khái niệm “học tập suốt đời”. sự phát triển của công nghệ và khoa học đã tạo cơ hội cho mọi người học tập suốt đời, tạo điều kiện và sẵn sàng cập nhật kiến thức, kỹ năng thường xuyên theo mọi nhu cầu của xã hội. Cuộc cách mạng số sẽ gạt tất cả những ai kém hiểu hiết, không chịu học tập sang một bên. Đồng thời nó cũng đặt ra yêu cầu buộc hệ thống giáo dục học tập suốt đời phải mở về không gian, đối tượng, tài nguyên giáo dục và cơ hội học tập.
Hiện nay, sự phát triển của nước ta và của nhiều nước trong khu vực và quốc tế hiện có khoảng cách lớn về trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta nhìn chung còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội đang phát triển, thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ hiện nay và điều đó đang đe dọa phá vỡ nhiều kế hoạch trong chiến lược phát triển, trong đó có thị trường lao động... muốn tranh thủ được cơ hội trong cuộc cách mạng số thì việc hình thành tư duy và năng lực học tập suốt đời là vấn đề vô cùng thiết thực, là một trong các vấn đề cốt lõi trong phát triển đất nước. Theo GS.TS Nguyễn Thị Doan “Trước yêu cầu của nền kinh tế kết nối, học tập và học tập suốt đời là con đường duy nhất để phát triển bền vững, là chìa khóa của mọi thành công. Học tập suốt đời phải được coi là bản năng của tất cả mọi người” [2]
Vì vậy, học tập không thể chỉ giới hạn trong độ tuổi đi học. Người học cần phải có năng lực học tập suốt đời, không ngừng cập nhật kiến thức và tri thức để theo kịp các đòi hỏi công việc liên tục thay đổi trong xã hội 4.0.
3. Giải pháp thúc đẩy nhanh sự hình thành xã hội học tập trong thời đại cách mạng 4.0
Xây dựng xã hội học tập, biến cả nước thành một xã hội học tập là vấn đề đặt ra đối với hệ thống giáo dục, chẳng những phải đào tạo những lao động lành nghề, có kỹ năng tốt, có thể làm chủ một quy trình công nghệ, mà còn cần đào tạo những lao động mới, có khả năng phát triển và thích ứng với biến đổi liên tục của thị trường lao động và môi trường xã hội cũng như sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ. Để đạt được mục tiêu xây dựng xã hội học tập cần chú ý đến những giải pháp sau đây:
Một là, đa dạng hóa các lộ trình giáo dục, phát triển quy mô và đa dạng hóa nội dung, hình thức giáo dục. Mỗi người học sẽ có nhu cầu và khả năng học tập khác nhau và nhiệm vụ của giáo dục là phát hiện, nuôi dưỡng và tạo động lực để người học xác định và theo đuổi sự quan tâm, niềm đam mê của mình. Điều này đòi hỏi hệ thống giáo dục cần cung cấp các lộ trình giáo dục đa dạng để phục vụ cho những khuynh hướng học tập và phong cách học tập khác nhau của mỗi cá nhân.
Phát triển quy mô giáo dục bao gồm mở rộng giáo dục không chính quy, đa dạng hóa các loại hình trường lớp; đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục; đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, nhấn mạnh đào tạo kỹ năng, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người. Củng cố, phát triển mạng lưới các cơ sở giáo dục như: trung tâm học tập cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên, các cơ sở giáo dục chính quy làm nhiệm vụ giáo dục thường xuyên, các cơ sở giáo dục khác (các trung tâm ngoại ngữ, tin học; củng cố mạng lưới trường, trung tâm bồi dưỡng cán bộ của các địa phương, các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội); phát triển các cơ sở giáo dục ngoài công lập (tăng tỉ lệ trường ngoài công lập trên cơ sở bảo đảm các điều kiện dạy và học, chú trọng kiểm tra, đánh giá chất lượng và đối xử công bằng).
Hai là, đẩy mạnh dạy và học ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập và quản lý để mọi người có thể tiếp cận được nhiều nguồn tri thức khác nhau trên phạm vi toàn thế giới.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Đề án dạy và học ngoại ngữ giai đoạn 2017 - 2025 với một số định hướng, như “tạo bước đột phá về chất lượng dạy và học ngoại ngữ cho các cấp học và trình độ đào tạo, khuyến khích đưa ngoại ngữ vào nhà trường từ bậc mầm non và các hoạt động xã hội. Đẩy mạnh dạy ngoại ngữ tích hợp trong các môn học khác và dạy các môn học khác bằng ngoại ngữ. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến trong dạy và học với hệ thống học liệu điện tử phù hợp mọi đối tượng để người học có thể học ngoại ngữ, tiếp cận tiếng bản ngữ mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện, đặc biệt trong phát triển kỹ năng nghe và kỹ năng nói. Tạo môi trường học tập trong nhà trường, gia đình và xã hội.
Bên cạnh đó, chương trình giáo dục cần bảo đảm cho người học được trang bị những hiểu biết về kỹ thuật số và công nghệ ở tất cả các cấp bậc học để dễ dàng tiếp cận những tiến bộ về khoa học và công nghệ. Trong chương trình giáo dục phổ thông mới, môn ngoại ngữ và môn tin học đã trở thành các môn học bắt buộc ngay từ đầu cấp tiểu học.
Ba là, thực hiện dân chủ, công bằng trong giáo dục, tạo nền tảng tiến tới xây dựng xã hội học tập
Thực hiện dân chủ, công bằng trong giáo dục để mọi người dân đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận thông tin và chiếm lĩnh tri thức.
Công bằng trong giáo dục được thực hiện trên các phương diện, gồm: người đi học phải đóng học phí, người sử dụng lao động qua đào tạo phải đóng góp chi phí đào tạo; hỗ trợ người học nghèo, diện chính sách bằng chính sách học bổng, miễn giảm học phí, cung cấp học liệu...; ưu tiên đầu tư đối với các vùng đặc biệt (vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi) bằng chính sách cử tuyển đào tạo, dự bị đại học, đào tạo theo địa chỉ, đào tạo cán bộ (cán bộ đảng, chính quyền, đoàn thể từ bản, ấp trở lên và cán bộ khoa học kỹ thuật) cho vùng dân tộc; ưu đãi tiền lương, phụ cấp và nơi ở đối với giáo viên dạy ở các vùng đặc biệt; tăng cường hệ thống trường nội trú, bán trú cho học sinh dân tộc...; phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập; bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài nǎng, đãi ngộ đúng giá trị nguồn nhân lực được đào tạo.
Bốn là, khuyến khích tự học và học tập suốt đời
Khuyến khích mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời; bảo đảm cho mọi công dân trong khuôn khổ pháp luật có quyền được học, được chọn trường, chọn thầy, chọn nghề, được học tập ở trong và ngoài nước.
Hiện nay, một trong những mục tiêu quan trọng nhất của giáo dục là phát hiện và nuôi dưỡng tài năng, khuyến khích sự theo đuổi, đam mê và nhu cầu học tập suốt đời của người học. Để đạt được mục tiêu này, một thay đổi lớn là cơ cấu lại hệ thống các trung tâm giáo dục thường xuyên và các trung tâm học tập cộng đồng, thay đổi các khuôn mẫu truyền thống để xây dựng các trung tâm học tập suốt đời. Đây cũng là giải pháp cơ bản thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.
Tóm lại, cách mạng số (4.0) mang lại cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức, để thích ứng phải phát triển kinh tế tri thức, nâng cao hiểu biết và kỹ năng toàn diện của đội ngũ lao động và toàn dân. Chỉ như vậy thì người lao động mới trở thành lao động tri thức, chúng ta mới có xã hội lao động tri thức, lúc đó sự phát triển giữa Việt Nam và các nước tiên tiến sẽ thu hẹp lại, và chúng ta cũng sẽ phát triển đất nước bằng vốn tri thức của toàn dân. Để làm giàu vốn tri thức chỉ có con đường học tập. Học ở mọi nơi, mọi lúc, bằng mọi hình thức: chính quy, không chính quy và phi chính quy. Người người, nhà nhà học tập là cơ sở để xây dựng Việt Nam thành xã hội học tập, xã hội tri thức.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Võ Tấn Quang - Xã hội hoá giáo dục, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr 39, Hà Nội (2001).
2. https://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/xay-dung-xa-hoi-hoc-tap-la-con-duong-duy-nhat-den-voi-cach-mang-40-2018100115000439.htm
3.http://hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=20942%3Avaitrotuhoc&catid=5399%3Avaitrotuhoc&Itemid=9265&lang=zh&site=34
5. John Vũ - Giáo dục trong thời đại tri thức, NXB Lao động, tr 35, Tp. Hồ Chí Minh (2016).
6. Phạm Tất Dong - Xây dựng xã hội học tập - một xu hướng đổi mới phát triển của giáo dục thế kỷ XXI, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1, (2013), trang 28.